ĐIỂM MỚI VỀ TÀI SẢN SỐ THEO LUẬT CÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ SỐ 2025

Sự phát triển như vũ bão của công nghệ đã tạo ra một lớp tài sản mới – tài sản số. Trong suốt nhiều năm, địa vị pháp lý của loại tài sản này tại Việt Nam vẫn nằm trong “vùng xám”, chưa được ghi nhận đầy đủ trong các đạo luật hiện hành. Tuy nhiên, với việc ban hành Luật Công nghiệp Công nghệ số năm 2025, khung pháp lý dành cho tài sản số đã chính thức được thiết lập, mở ra cả cơ hội lẫn thách thức đối với các nhà đầu tư và doanh nghiệp. Luật sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2026.

Khung pháp lý về tài sản số

1. Địa vị pháp lý của Tài sản số: Một khoảng trống được lấp đầy

Trước đây, việc xác định tài sản số có được coi là “tài sản” theo định nghĩa tại Bộ luật dân sự hay không luôn là một vấn đề gây nhiều tranh luận.

Căn cứ theo Điều 105 Bộ luật Dân sự 2015:

“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.

2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”

Theo quy định trên, tài sản chỉ được định nghĩa là “vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Cách định nghĩa truyền thống này đã không bao quát được các loại hình tài sản phi vật thể như dữ liệu số, token, hay tiền mã hóa, dẫn đến việc chúng chưa được bảo vệ đầy đủ về mặt pháp lý.

Luật Công nghiệp Công nghệ số 2025 đã bước đầu tháo gỡ vướng mắc này. Điều 46 của Luật quy định:

“Tài sản số là tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự, được thể hiện dưới dạng dữ liệu số, được tạo lập, phát hành, lưu trữ, chuyển giao và xác thực bởi công nghệ số trên môi trường điện tử.”

Như vậy, kể từ ngày 01/01/2026, tài sản số chính thức được công nhận là một loại tài sản hợp pháp tại Việt Nam. Điều này không chỉ lấp đầy khoảng trống pháp lý mà còn tạo cơ sở cho mọi giao dịch dân sự liên quan đến sử dụng tài sản số như mua bán, chuyển nhượng, thế chấp, hoặc thừa kế.

2. Phân loại Tài sản số: “Tài Sản Ảo” và “Tài Sản Mã Hóa”

Luật mới không chỉ dừng lại ở việc công nhận mà còn tiến hành phân loại rõ ràng các loại tài sản số, cụ thể như sau:

Điều 47 Luật Công nghiệp Công nghệ số 2025 quy định: 

“1. Tài sản số được phân loại theo một hoặc một số tiêu chí sau:

a) Mục đích sử dụng;

b) Công nghệ;

c) Tiêu chí khác.

2. Tài sản số bao gồm:

a) Tài sản ảo trên môi trường điện tử là một loại tài sản số có thể được dùng cho mục đích trao đổi hoặc đầu tư. Tài sản ảo không bao gồm chứng khoán, các dạng số của tiền pháp định và tài sản tài chính khác theo quy định của pháp luật về dân sự; tài chính;

b) Tài sản mã hóa là một loại tài sản số sử dụng công nghệ mã hóa hoặc công nghệ số có chức năng tương tự để xác thực đối với tài sản trong quá trình tạo lập, phát hành, lưu trữ, chuyển giao. Tài sản mã hóa không bao gồm chứng khoán, các dạng số của tiền pháp định và tài sản tài chính khác theo quy định của pháp luật về dân sự; tài chính;

c) Tài sản số khác.”

3. Câu hỏi đặt ra: Liệu các loại tài sản số hay các loại tiền ảo như Bitcoin, Ethereum,… có được sử dụng làm phương tiện thanh toán? 

Mặc dù các loại tài sản số hay tiền ảo như Bitcoin, Ethereum (với tư cách là các loại tài sản ảo/tài sản mã hóa) được công nhận là một dạng tài sản, nhưng việc sử dụng chúng làm phương tiện thanh toán vẫn bị cấm.

Căn cứ Khoản 2 Điều 47 Luật Công nghiệp Công nghệ số 2025 quy định: 

“2. Tài sản số bao gồm:

a) Tài sản ảo trên môi trường điện tử là một loại tài sản số có thể được dùng cho mục đích trao đổi hoặc đầu tư. Tài sản ảo không bao gồm chứng khoán, các dạng số của tiền pháp định và tài sản tài chính khác theo quy định của pháp luật về dân sự; tài chính;

b) Tài sản mã hóa là một loại tài sản số sử dụng công nghệ mã hóa hoặc công nghệ số có chức năng tương tự để xác thực đối với tài sản trong quá trình tạo lập, phát hành, lưu trữ, chuyển giao. Tài sản mã hóa không bao gồm chứng khoán, các dạng số của tiền pháp định và tài sản tài chính khác theo quy định của pháp luật về dân sự; tài chính;

c) Tài sản số khác.

Đồng thời, theo Khoản 10, 11 Điều 3 Nghị định 52/2024/NĐ-CP ngày 15/5/2004 quy định về thanh toán không dùng tiền mặt:

“10. Phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt (sau đây gọi là phương tiện thanh toán) là phương tiện do tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, công ty tài chính được phép phát hành thẻ tín dụng, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán cung ứng dịch vụ ví điện tử phát hành và được khách hàng sử dụng nhằm thực hiện giao dịch thanh toán, bao gồm: séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng (bao gồm: thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng, thẻ trả trước), ví điện tử và các phương tiện thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.

11. Phương tiện thanh toán không hợp pháp là các phương tiện thanh toán không thuộc quy định tại khoản 10 Điều này.”

Bên cạnh đó, tham khảo Công văn 5747/NHNN-PC ngày 21/7/2017 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam về việc trả lời kiến nghị của ông Vũ Thái Hà về việc thiết kế trung tâm máy tính Bitcoin, Litecoin và các loại tiền ảo:

“Tiền ảo nói chung và Bitcoin, Litecoin nói riêng không phải là tiền tệkhông phải là phương tiện thanh toán hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam. Việc phát hành, cung ứng và sử dụng tiền ảo nói chung và Bitcoin, Litecoin nói riêng (phương tiện thanh toán không hợp pháp) làm tiền tệ hoặc phương tiện thanh toán là hành vi bị cấm”

Như vậy, có thể hiểu mọi người đều được phép sở hữu, đầu tư, mua bán, trao đổi các loại tài sản số, các loại tiền ảo như Bitcoin, Ethereum,… Tuy nhiên đối với việc sử dụng các loại tiền ảo này cho mục đích thanh toán thì hoàn toàn không được pháp luật cho phép.

Để biết thêm chi tiết, vui lòng liên hệ: Công ty luật TNHH Huỳnh Nam

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *