Phá thai là tình trạng thai kỳ kết thúc sớm do sử dụng thuốc hoặc phẫu thuật để loại bỏ phôi thai hay bào thai và nhau thai ra khỏi tử cung. Đây là chủ đề nhạy cảm nhưng thường gặp trong thực tế, nhất là khi mang thai ngoài ý muốn.
Có một câu hỏi của quý độc giả như sau: Tôi năm nay 26 tuổi, hiện đang sống tại tỉnh A. Tôi chưa kết hôn và có công việc làm nhân viên văn phòng. Tôi mang thai ngoài ý muốn ở tuần thứ 20, hiện tại tôi có ý định phá thai. Vậy nếu tôi phá thai thì tôi có vi phạm pháp luật hay không?
Dưới đây là một số gợi ý của Công ty Luật TNHH Huỳnh Nam liên quan tới câu hỏi này:

1. Pháp luật không cấm phụ nữ phá thai
Theo khoản 1 Điều 44 Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989, phụ nữ có quyền:
“Phụ nữ được quyền nạo thai, phá thai theo nguyện vọng, được khám bệnh, chữa bệnh phụ khoa, được theo dõi sức khoẻ trong thời kỳ thai nghén, được phục vụ y tế khi sinh con tại các cơ sở y tế.”
Như vậy, pháp luật Việt Nam cho phép phụ nữ được phá thai theo nguyện vọng, miễn là việc này được thực hiện tại cơ sở y tế đủ điều kiện chuyên môn.
Tuy nhiên, pháp luật nghiêm cấm phá thai vì mục đích lựa chọn giới tính. Căn cứ:
-
Khoản 2 Điều 7 Pháp lệnh Dân số năm 2003 quy định:“Nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức.”
-
Khoản 3 Điều 10 Nghị định 104/2003/NĐ-CP hướng dẫn rõ:“Loại bỏ thai nhi vì lý do lựa chọn giới tính bằng các biện pháp phá thai, cung cấp, sử dụng các loại hóa chất, thuốc và các biện pháp khác là hành vi bị nghiêm cấm.”
Theo Quyết định 4128/QĐ-BYT ngày 29/9/2016 của Bộ Y tế (ban hành Hướng dẫn quốc gia về dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản): “Phá thai chỉ được thực hiện đến tuổi thai 22 tuần trở xuống và phải bảo đảm đầy đủ điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhân lực và kỹ thuật chuyên môn.”
Do đó, phụ nữ được quyền phá thai, nhưng không được phá thai trên 22 tuần và không được phá thai vì lựa chọn giới tính thai nhi.
2. Phụ nữ phá thai không bị truy cứu trách nhiệm hình sự
Hiện nay, Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017) không có bất kỳ điều luật nào quy định tội danh dành cho người phụ nữ phá thai, dù là hợp pháp hay trái phép.
Tuy nhiên, người thực hiện việc phá thai trái phép cho người khác có thể bị xử lý hình sự nếu vi phạm quy định về chuyên môn y tế. Cụ thể:
Điều 315 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017) – Tội vi phạm quy định về khám bệnh, chữa bệnh, sản xuất, pha chế thuốc, cấp phát thuốc, bán thuốc hoặc dịch vụ y tế khác:
“Người nào vi phạm quy định về khám bệnh, chữa bệnh… mà gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”
3. Xử lý hành chính đối với hành vi ép buộc, dụ dỗ phá thai
Bên cạnh chế tài hình sự, pháp luật cũng có quy định xử phạt hành chính đối với hành vi ép buộc, dụ dỗ phụ nữ phá thai hoặc phá thai vì lựa chọn giới tính.
Theo Điều 100 Nghị định 117/2020/NĐ-CP ngày 28/9/2020 của Chính phủ (về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế), quy định:
“Điều 100. Hành vi loại bỏ thai nhi vì lý do lựa chọn giới tính
1. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi loại bỏ thai nhi vì lý do lựa chọn giới tính của người mang thai mà không bị ép buộc phải loại bỏ thai nhi.
2. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng đối với hành vi dụ dỗ, lôi kéo người mang thai loại bỏ thai nhi vì lý do lựa chọn giới tính.
3. Phạt tiền từ 7.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi đe dọa dùng vũ lực, uy hiếp tinh thần để ép buộc người mang thai loại bỏ thai nhi vì lý do lựa chọn giới tính.
4. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng đối với hành vi dùng vũ lực để ép buộc người mang thai phải loại bỏ thai nhi vì lý do lựa chọn giới tính.
5. Phạt tiền từ 12.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
a) Cung cấp hóa chất, thuốc để loại bỏ thai nhi mà biết rõ người đang mang thai muốn loại bỏ thai nhi vì lý do lựa chọn giới tính;
b) Chỉ định hoặc hướng dẫn sử dụng hóa chất, thuốc hoặc các biện pháp khác để loại bỏ thai nhi mà biết rõ người đang mang thai muốn loại bỏ thai nhi vì lý do lựa chọn giới tính.
6. Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi phá thai mà biết rõ người đang mang thai muốn loại bỏ thai nhi vì lý do lựa chọn giới tính.
7. Hình thức xử phạt bổ sung:
a) Tước quyền sử dụng giấy phép hoạt động, chứng chỉ hành nghề trong thời hạn từ 03 tháng đến 06 tháng đối với hành vi quy định tại khoản 5 Điều này;
b) Tước quyền sử dụng giấy phép hoạt động, chứng chỉ hành nghề trong thời hạn từ 06 tháng đến 12 tháng đối với hành vi quy định tại khoản 6 Điều này;
c) Tước quyền sử dụng giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dược hoặc đình chỉ hoạt động kinh doanh đối với cơ sở có hoạt động dược không vì mục đích thương mại trong thời hạn từ 01 tháng đến 03 tháng đối với hành vi quy định tại điểm a khoản 5 Điều này.”
Như vậy, việc phá thai để lựa chọn giới tính thai nhi là hành vi bị nghiêm cấm. Trong trường hợp tổ chức hành nghề y tế tiến hành phá thai cho người mang thai mà biết rõ mục đích lựa chọn giới tính thai nhi thì ngoài các hình phạt chính còn có thể bị tước quyền sử dụng giấy phép hoạt động, chứng chỉ hành nghề hoặc giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh
4. Phá thai có phải là hành vi “giết người” hay không?
Phá thai không được coi là hành vi giết người, vì theo pháp luật Việt Nam, thai nhi chưa được công nhận là “một con người” hoàn chỉnh về mặt pháp lý cho đến khi sinh ra sống và được đăng ký khai sinh.
Căn cứ:
-
Điều 30 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Cá nhân có quyền được khai sinh, khai tử. Mỗi cá nhân từ khi sinh ra đều có năng lực pháp luật dân sự.”
-
Luật Hộ tịch 2014 cũng chỉ quy định việc đăng ký khai sinh cho “người sinh ra còn sống”.
⇒ Như vậy, thai nhi trong bụng mẹ chưa phải là “người” hay “công dân” theo nghĩa pháp lý.
Do đó, phá thai đúng quy định không cấu thành tội “Giết người” theo Điều 123 Bộ luật Hình sự.
Tuy nhiên, nếu thai đã sinh ra sống (ví dụ: trẻ vừa chào đời có dấu hiệu thở, khóc, cử động) mà bị tước đoạt tính mạng, thì đó là hành vi giết người và sẽ bị xử lý hình sự nghiêm khắc.
5. Tội giết con mới đẻ – quy định đặc biệt trong Bộ luật Hình sự
Điều 124 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017) – Tội giết con mới đẻ:
“Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con do mình đẻ ra trong 7 ngày tuổi, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”
Đây là quy định đặc biệt, nhằm xét đến yếu tố tâm lý và hoàn cảnh xã hội của người mẹ.
Nếu hành vi giết con xảy ra sau 7 ngày tuổi, hoặc không thuộc trường hợp “ảnh hưởng tư tưởng lạc hậu, hoàn cảnh đặc biệt”, thì người mẹ sẽ bị truy cứu về tội giết người (Điều 123), với khung hình phạt cao nhất là tử hình.
Tóm lại
-
Phụ nữ có quyền phá thai theo nguyện vọng, trong giới hạn 22 tuần và tại cơ sở y tế đủ điều kiện.
-
Phụ nữ phá thai không bị truy cứu hình sự.
-
Người thực hiện phá thai trái phép hoặc ép buộc, dụ dỗ người khác phá thai có thể bị xử lý hành chính (theo Nghị định 117/2020/NĐ-CP) hoặc hình sự (theo Điều 315 BLHS).
-
Phá thai không phải là tội giết người, vì thai nhi chưa được coi là một con người về mặt pháp lý.
-
Nếu đứa trẻ đã sinh ra sống, hành vi tước đoạt mạng sống bị xử lý về tội giết người hoặc giết con mới đẻ.
Tư vấn của Luật sư
Phá thai là quyền cá nhân, nhưng cũng là quyết định có thể ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, tâm lý và pháp lý của người phụ nữ.
Nếu bạn đang gặp khó khăn liên quan đến việc phá thai, bị ép buộc phá thai hoặc có tranh chấp liên quan đến quyền làm mẹ, hãy liên hệ Công ty Luật Huỳnh Nam để được tư vấn cụ thể, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

