Có phải trả nợ khi bị đánh cắp thông tin CCCD để vay tiền không? Ngày nay, việc vay tiền ngày càng trở nên đơn giản, chỉ với một số thông tin cá nhân trên CCCD hay số điện thoại,… là đã có thể “giải ngân”.

Theo Nghị định 13/2023/NĐ-CP về bảo vệ dữ liệu cá nhân, dữ liệu cá nhân là thông tin dưới dạng ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự trên môi trường điện tử gắn liền với một con người cụ thể hoặc giúp xác định một con người cụ thể. Những thông tin này có khả năng xác định hoặc gắn liền với một cá nhân cụ thể, qua đó giúp phân biệt cá nhân này với người khác.
Khoản 3 Điều 2 Nghị định 13/2023/NĐ-CP quy định:
“Dữ liệu cá nhân cơ bản bao gồm: …g) Số điện thoại, số chứng minh nhân dân, số định danh cá nhân, số hộ chiếu, số giấy phép lái xe, số biển số xe, số mã số thuế cá nhân, số bảo hiểm xã hội, số thẻ bảo hiểm y tế;…”
Căn cứ Điều 38 Bộ luật Dân sự 2015, các thông tin thuộc bí mật cá nhân, đời sống riêng tư của cá nhân được pháp luật bảo vệ; việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai hoặc sử dụng các thông tin này phải được sự đồng ý của chính người đó.
Có phải trả nợ khi bị đánh cắp thông tin CCCD để vay tiền không?
Điều 463 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.”
Theo đó, quan hệ vay tiền chỉ được hình thành khi có sự thỏa thuận giữa các bên là bên cho vay và bên vay về việc vay tiền, giao tiền cho vay, hạn trả nợ, lãi suất (nếu có).
Ngoài ra, tại Điều 466 Bộ luật Dân sự 2015 cũng quy định bên vay phải có nghĩa vụ trả nợ cho bên cho vay, trường hợp vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn.
Như vậy, căn cứ vào các quy định trên thì bên vay tài sản mới là người có nghĩa vụ trả nợ cho bên cho vay. Do đó, một người bị lấy cắp thông tin nhưng trên thực tế lại không vay tiền thì không có nghĩa vụ phải trả nợ. Tuy nhiên, trong trường hợp này, người bị lấy cắp thông tin phải chứng minh được bản thân không phải là người thực hiện việc vay tiền.
Để đảm bảo quyền lợi cho mình, người bị đánh cắp thông tin vay tiền có thể trình báo sự việc trên cho các cơ quan công an theo quy định tại Điều 144 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; quy định tại khoản 5, khoản 6 và khoản 1 Điều 7 Thông tư 28/2020/TT-BCA (sửa đổi bổ sung bởi Thông tư 29/2021/TT-BCA) để được cơ quan có thẩm quyền tiến hành điều tra, xác minh sự việc.
Để biết thêm chi tiết, vui lòng liên hệ Công ty luật TNHH Huỳnh Nam.

