Trên thực tế đã có trường hợp xảy ra như sau: Quyền sử dụng đất là tài sản chung của hai vợ chồng, tuy nhiên, khi ký kết Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì chỉ được ký kết bởi người chồng mà không có sự tham gia của người vợ.
Vấn đề đặt ra là, trong trường hợp này, hợp đồng có bị vô hiệu toàn bộ hay không?
Khoản 1, 2 Điều 213 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia.
2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung”.
Khoản 1 Điều 29 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
“Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập”.
Điều 35 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
“1. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận
2.Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong những trường hợp sau đây:
a) Bất động sản;
…”.
Theo các quy định trên thì việc định đoạt tài sản chung của hai vợ chồng là bất động sản phải do hai vợ chồng cùng thống nhất thỏa thuận. Nếu chỉ có người chồng hoặc người vợ tham gia ký kết hợp đồng chuyển nhượng, bên còn lại không tham gia ký kết, không đồng ý thì hợp đồng đó vô hiệu toàn bộ.
Tuy nhiên, trường hợp nhà đất là tài sản chung của vợ chồng mà chỉ có một người đứng tên ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất đó cho người khác, người còn lại không ký tên trong hợp đồng; nếu có đủ căn cứ xác định bên chuyển nhượng đã nhận đủ số tiền theo thỏa thuận, người không ký tên trong hợp đồng biết và cùng sử dụng tiền chuyển nhượng nhà đất; bên nhận chuyển nhượng nhà đất đã nhận và quản lý, sử dụng nhà đất đó công khai; người không ký tên trong hợp đồng biết mà không có ý kiến phản đối gì thì phải xác định là người đó đồng ý với việc chuyển nhượng nhà đất (theo Án lệ số 04/2016/AL ngày 06/4/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao).
Như vậy, nếu như người còn lại không ký tên trong hợp đồng nhưng biết về việc chuyển nhượng, không phản đối vấn đề này và cùng sử dụng khoản tiền có được từ việc chuyển nhượng tài sản chung thì phải xác định người này đã đồng ý về việc chuyển nhượng tài sản chung, theo đó hợp đồng chuyển nhượng vẫn được công nhận.